Ý nghĩa của việc tăng cường nhận thức của sinh viên các trường đại học và cao đẳng về vai trò, nội dung của chiến tranh nhân dân Việt Nam trong tình hình hiện nay? A. Giúp sinh viên xác định đúng đắn vị trí, vai trò của mình đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc ngay
Tôi có đọc một truyện ngắn của Tổng thư kí tòa soạn báo Sinh viên Việt Nam - Hoa học trò mang tên "Huyền thoại phần mía ngọn". Câu chuyện trả lời câu hỏi khi nào em lớn? Đọc đoạn trích sau và thực hiện các yêu cầu: Mùa hạ năm nay mưa nhiều. Dưới bầu trời
Sự việc sau đó được đồng nghiệp trong trường phát hiện và phản ánh với lãnh đạo nhà trường. Sau khi phát hiện sự việc, Đại học Đà Nẵng đã chỉ đạo thu hồi quyết định kết nạp Đảng cùng chứng chỉ 'bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giảng viên
Du học Đức hiện đang thu hút sự quan tâm của nhiều sinh viên Việt Nam hiện nay, bài viết này nhằm mục đích tổng hợp chung về du học Đức và trả lời cho câu hỏi vì sao hiện nay nhiều bạn sinh viên Việt Nam lại quan tâm tới du học Đức. 1. Về nước Đức và hệ thống giáo dục Đức:
Tài liệu "Lối sống của sinh viên việt nam hiện nay, thực trạng và kiến nghị" có mã là 54479, file định dạng docx, có 9 trang, dung lượng file 20 kb.Tài liệu thuộc chuyên mục: Luận văn đồ án > Sư phạm > Tâm lý giáo dục.Tài liệu thuộc loại Đồng. Nội dung Lối sống của sinh viên việt nam hiện nay, thực trạng và
D~c bi~t T€t nam nay BBC se ,P.hlit hanh D~c san v6'i hai chu d~ chfnh: Xuan va tuOi tre VSA D~ chuan bj cho vi~c bat tay vao lam to d~c san nay, BBC xin moi cac cl)'u sinh vien ciing nhu cac sinh vien dan~ h9c t~i WSU tham gia hai cu()c thi vi€t bao va ch1;1p anh nbam nang cao ch~t luqng nQi dung va thAm my cua to bao.
FbXA8.
Thực trạng lối sống sinh viên hiện nayBạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây KB, 30 trang I TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU Trong những năm gần đây xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độ chóng mặt. Nó bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng từ khắp nơi xâm nhập vào. Vì thế mà xã hội ngày càng phát triển nhưng bên cạnh đó nó cũng làm thay đổi về tư tưởng về lối sống của nhiều người. Đặc biệt ở đây , một vấn đề rất được quan tâm là lối sống của sinh viên ngày nay. Nói đến sinh viên tức là nói đến thế hệ đang nắm trong tay tri thức cùng với những hiểu biết về tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh viên là một lực lượng không nhỏ. Họ là lớp người đang được đào tạo toàn diện và đầy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học Nói đến sinh viên Việt Nam tức là nói đến một thế hệ trẻ đầy sức sống và sức sáng tạo. Họ nắm trong tay tri thức của thời đại, chìa khóa mở ra cánh cửa cho tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển đất nước nói riêng. Về mặt số lượng, sinh viên là một lực lượng không nhỏ .Hiện nay Việt Nam có tổng số 376 trường đại học, cao đẳng trên cả nước, trong đó bộ Giáo dục và Đào tạo trực tiếp quản lý 54 trường, các Bộ, ngành khác quản lý 116 trường, Các tỉnh, thành phố là cơ quan chủ quản của 125 trường. Tổng số sinh viên bậc đại học hiện nay khoảng người, số lượng tuyển sinh hằng năm trong những năm gần đây khoảng người/kỳ thi. Về mặt chất lượng, sinh viên là lớp người trẻ được đào tạo toàn diện và đấy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, khoa học chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố chuyên ngành theo học, sự phân bố các trường, khu vực sinh sống và học tập, lối sống của sinh viên Việt Nam nhìn chung cực kỳ đa dạng và phong phúNhưng xã hội ngày càng văn minh hiện đại, công nghệ thông tin ngày càng phát triển, công cuộc hội nhập với thế giới càng cao, đời sống con người càng được nâng cao thì càng đặt ra cho sinh viên, tầng lớp tri thức, giới trẻ ngày nay càng nhiều thử thách. Khi mà các nền văn hóa phương tây đang du nhập vào Việt Nam, có những điều tốt đẹp nhưng cũng không ít những giá trị văn hóa không thích hợp với tư tưởng, truyền thống của người phương đông, câu hỏi đặt ra là sinh viên, tầng lớp trí thức sẽ thích ứng thế nào với một môi trường mới? Họ sẽ chọn lọc học những cái hay, cái đẹp phù hợp với bản thân hay học theo cái xấu không phù hợp để rồi dần dần đánh mất đi những truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Mỗi người có một cách thích ứng riêng nên nó đã tạo nên nhiều lối sống trong sinh viên và giới trẻ. Sinh viên là lớp thanh niên trí thức đại diện và quyết định tương lai đất nước, chính vì thế việc bàn về lối sống của sinh viên là một điều quan trọng và hết sức cần TRẠNG VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU 1- Thực trạng sinh viên hiện nay thụ động trong học tập Làm thêm, dạy kèm, bán hàng , tiếp thị dẫn đến lơ là học tập, hoặc không theo nổi chương trình học đại học là những lý do sinh viên bị buộc thôi học. Tuy nhiên đó không phải là lý do chính, vì có những sinh viên vừa học vừa làm thêm nhưng kết quả học tập vẫn đạt điểm nhân ở đây là do sinh viên không chịu tìm tòi sách, tài liệu phục vụ cho chuyên môn của mình mặc dù trong phương pháp giảng dạy đại học nhiều thầy cô lên lớp chỉ hướng dẫn và đưa ra những tư liệu, đầu sách cần thiết cho sinh viên tìm kiếm tham khảovà tâm lí quen với việc đọc _chép. Từ đó dẫn đến thực trạng thụ động trong học tập của phần lớn sinh viên hiện nay. Từ thực tế trên cho thấy bên cạnh chương trình học tập đại học hiện nay đã nặng nề, thì công cụ để truyền tải kiến thức hiện nay cũng chưa lấy gì làm hài lòng. Số sinh viên tìm đến thư viện không nhiều, chỉ lác đác vài bạn đến thư viện những ngày bình thường và có nhiều hơn một chút khi mùa thi đến. Nhân viên quản lý thư viện cho biết, một ngày bình quân chỉ có khoảng vài chục em đến đây ngồi học, tìm tòi tư khi đó, giờ giảng dạy của giảng viên trên lớp không có gì hơn ngoài một cái micrô cứ ọc-ẹc theo kiểu mạnh thầy thầy cứ nói, còn lớp học đông đúc thì mạnh trò, trò ngủ. Tại một hội thảo về cải tiến phương pháp giảng dạy đại học mới đây, một giáo sư ở Trường ĐH Sư phạm đã phải cảnh báo khi ông khám phá ra cách học tập của sinh viên mà ông trực tiếp giảng dạy hiện nay thụ động đến độ khó tin! Để kiểm nghiệm cách học thụ động này đến đâu, vị giáo sư đã làm cuộc điều tra bỏ túi tuần đầu chỉ đứng giảng trên lớp cho sinh viên và cả học viên cao học ghi chép, kết quả chỉ 40% đạt điểm kiểm tra trên trung hai, giáo sư lên lớp chỉ hướng dẫn đầu sách tham khảo, kết quả trên 60 % sinh viên đạt điểm trung bình. Trong hai tuần này, tinh thần học tập của sinh viên không mấy thích thú, thậm chí có người nằm ngủ gật! Nhưng đến tuần thứ ba, vị giáo sư áp dụng phương pháp gợi mở câu hỏi đề tài, thì cả lớp thảo luận, tranh cãi quyết liệt, và kết quả học tập khiến cho vị giáo sư hài lòng 90% đạt điểm kiểm tra trên trung bình. Ở các nước tiên tiến, một giáo sư khi giảng dạy trên lớp luôn phải đi kèm từ một đến hai trợ giảng. Những trợ giảng này luôn đảm nhiệm công tác điều phối không khí lớp học, nội dung học tập của sinh viên và tổ chức những cemina cho sinh viên bàn thảo đề tài học tập, gợi mở kiến thức. Từ đó, người học bị lôi cuốn theo chiều hướng chủ động và sáng tạo. Nhưng đó là chuyện ở các nước, còn ở các trường ĐH chúng ta hiện nay, để làm được việc này vẫn còn khoảng cách khá xa! Thêm nữa, tâm lí quen đọc _ chép mỗi khi trên lớp cũng dẫn tới tình trạng thụ động của sinh viên, nếu giảng viên không đọc thì sinh viên cũng không chép, chỉ ngồi nghe và thưc tế là kiến thức đọng lại trong đầu khi đó sẽ rất ít,thậm chí là không có gì. Trong khi đó sinh viên cũng không có thói quen đọc giáo trình và các tài liệu liên quan đến môn học đó khi ở nhà. Rõ ràng khi ngại phát biểu trong giờ học sẽ dẫn đến ngại phát biểu trong cơ quan làm việc sau này. Ngại phát biểu cũng đồng nghĩa với việc không dám nói lên sự thật, không dám nhìn nhận cái sai.... Trong mỗi giờ học, chuyện sinh viên phát biểu ý kiến là rất ít thay vào đó là Giảng viên nêu vấn đề, sinh viên cúi mặt xuống bàn... Đó là việc các thầy cô đứng trên bục giảng và yêu cầu nhiều lần các sinh viên trả lời câu hỏi. Đó không phải là những câu hỏi khó. Thông thường nó đều nằm trong phạm vi hiểu biết và có thể trả lời của sinh viên. Thế nhưng rất ít có cánh tay nào giơ lên. Điều này ảnh hưởng khá lớn đến không khí học tập trong lớp. Nó gây ra một cảm giác rất áp lực mỗi khi thầy cô đặt câu hỏi. sinh viên thì cảm thấy áp lực, còn giáo viên cũng cảm thấy chán nản vì chỉ có sự làm việc một chiều. Vậy thì nguyên nhân do đâu sinh viên "không thèm phát biểu ý kiến trong giờ học ? Sau đây là 6 nguyên nhân được đưa ra 1 Chuyện phát biểu là chuyện của ai đó chứ không phải của mình. Mình không phát biểu thì sẽ có người khác phát biểu, thế thôi . 2 Không muốn là người đầu tiên. Đây là một tâm lý khá phổ biến bởi khi một người nào đó đã giơ tay phát biểu và khi thầy cô tiếp tục hỏi về vấn đề đó thì có khá nhiều người xung phong nhưng lại không giơ tay ngay từ đầu . 3 Không phát biểu không sao, vì thầy cô gọi mãi không ai xung phong thì sẽ "chọn mặt gửi vàng" trong danh sách lớp và sẵn làm luôn công việc điểm danh. Xong, thế là qua chuyện, họa hoằn lắm thầy cô mới gọi trúng mình. 4 Đa phần những người hay phát biểu không phải là những "sao" trong lớp. Không hiểu rằng các "sao" này sợ phát biểu nếu sai sẽ bị mất hình tượng hay sao mà không bao giờ giơ tay phát biểu nhưng lại thích ngồi ở dưới trả lời nho nhỏ. 5 Trong những giờ học ngoại ngữ , điều này lại càng khó chịu hơn. Lớp học thật sự căng thẳng mỗi khi thầy cô có câu hỏi và yêu cầu xung phong. Lớp học thì ít người, thầy cô cứ đứng trên mà kêu gọi, ở dưới sinh viên cứ cúi mặt xuống bàn . 6Và cuối cùng có lẽ chính là do sự thụ động, nhút nhát trong một bộ phận lớn sinh viên hiện nay. Tuy nhiên, "chuyện phát biểu trong sinh viên" không phải chỉ xuất hiện ở giảng đường đại học. Ngay từ ngôi trường cấp II, cấp III điều này cũng đã khá quen thuộc. Thế nhưng quy mô những lớp học ngày xưa còn nhỏ, thầy cô đã khá quen mặt nên nếu không xung phong, thầy cô sẵn sàng gọi lên bảng. Ở cấp I lại khác, các em phát biểu khá hồn nhiên và luôn làm theo lời cô dạy "hăng hái phát biểu ý kiến". Vậy thì tại sao lại xảy ra một hiện tượng kỳ quặc đến như vậy?! Phải nhìn nhận rằng sự vô trách nhiệm, thụ động, ỷ lại đang thật sự tồn tại trong một bộ phận lớn những người chủ tương lai của đất nước . Từ việc ngại phát biểu trong giờ học sẽ dẫn đến ngại phát biểu trong cơ quan làm việc sau này. Ngại phát biểu cũng đồng nghĩa với việc không dám nói lên sự thật, không dám nhìn nhận cái sai. Như thế, cái sai không được đưa ra ánh sáng, không được làm rõ nên sẽ không thể tìm ra được cách giải quyết, không thể tiến bộ. Một đất nước mà có thế hệ trẻ như thế thì lạc hậu là chuyện không thể tránh khỏi. Thông qua việc tiến hành khảo sát bằng câu hỏi tại sao sinh viên giờ lười phát biểu? ở một số bạn sinh viên nằm rải rác ở một số trường ĐH và CĐ và đây là những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng "ít phát biểu" được rút ra từ 15 phiếu khảo sát tiêu biểu nhất1 . Do sinh viên quá lười học, không chịu chuẩn bị bài trước ở nhà mà chỉ đợi lên lớp chờ giảng viên giảng rồi chép vào nên không đủ kiến thức để trả lời những câu hỏi của thầy cô2 . Vì sợ phát biểu sai bị bạn bè cười nhạo và đôi khi sợ bị thầy cô la hoặc có thể bị trừ điểm thì "quê độ"3 . Trong lớp không ai giơ tay phát biểu mà mình phát biểu thì sợ bị coi là "chảnh"4 . Có khi câu hỏi quá khó vượt ngoài kiến thức hiểu biết5 . Có thể sinh viên không cảm thấy hứng thú với môn học, tiết học thiếu tranh ảnh minh họa, giảng viên giảng bài chưa cuốn hút... nên sinh viên chọn cách ngồi chép bài là hơn6 . Tán chuyện hoặc không tập trung nghe giảng nên không hiểu rõ câu hỏi7 . Đôi khi câu hỏi được đặt ra quá dễ, bạn nào cũng biết rồi nên không ai giơ tay phát biểu vì không có hứng 8 . Trong một số trường hợp giơ tay phát biểu là vì được khuyến khích cộng thêm điểm số nhưng đây chỉ là phần thiểu số9 . Không khí trong lớp học không được sôi động10 . Sợ phát biểu đúng có thể thầy cô sẽ đặt tiếp những câu hỏi khác mà mình không biết trước được11 . Không tự tin vào bản thân, ngại ngùng khi phải đứng lên và trả lời trước đám đông... Phần lớn sinh viên được khảo sát cho rằng những nguyên nhân có ảnh hưởng tiêu cực tới hứng thú học tập trong sinh viên là trong quá trình giảng dạy, giảng viên không đưa ra các tình huống để kích thích sinh viên tư duy, không cập nhật thông tin về đời sống xã hội, phần lớn thời gian trong giờ học giảng viên chỉ đọc cho sinh viên chép những kiến thức sẵn có trong giáo trình rồi giải thích qua loa, không tạo được bầu không khí thân thiện trong lớp... Nhưng ngoài ra Sự áp đặt của giảng viên cũng khiến sinh viên sợ sai ! Đa phần sinh viên rất ngại phát biểu, trừ khi gặp những vấn đề khúc mắc không tự tìm hiểu được thì mới cần phải hỏi trực tiếp giảng viên. Ở một số môn học, đặc biệt là các môn đại cương, có thể nói giảng viên chỉ truyền đạt lại cho sinh viên theo cách đọc - chép nên không tạo được bầu không khí học tập sôi động. Một số giáo viên có nêu câu hỏi rồi chỉ định hoặc để sinh viên tự giơ tay trả lời, nhưng phần đông sinh viên không hưởng ứng lắm. Những nguyên nhân chính khiến sinh viên ngại phát biểu là cảm giác sợ sai. Sự áp đặt của giáo viên cũng "đóng góp" vào tâm lý sợ sai của sinh viên. So với thế giới, sinh viên nước ta còn thụ động. Chỉ có chừng vài phần trăm sinh viên là chủ động. Điều này làm giảm năng lực tự nghiên cứu của sinh viên. Khác với học sinh, nhiệm vụ của sinh viên là học và nghiên cứu. Sinh viên không nên thụ động, lên giảng đường nghe thầy giảng rồi... trả lại cho thầy mà phải tự tìm tài liệu đọc để thảo luận trước lớp. Việc thầy cô gợi ý để sinh viên thảo luận cũng thể hiện được sự chưa chủ động ở sinh viên. Vậy mà thậm chí, có khi thầy nêu vấn đề thảo luận rồi mà sinh viên vẫn ngồi im, không hăng hái tham gia. Điều này làm giảm chất lượng giờ dạy vì giảng viên muốn nghe ý kiến sáng tạo, giải quyết vấn đề của sinh viên. Một số giảng viên phải đưa ra biện pháp cộng điểm cho sinh viên nào tích cực phát biểu. Không đọc trước tài liệu làm tăng tính rụt rè của sinh viên khi phát biểu trước lớp. Kết quả là bạn trẻ tốt nghiệp ĐH rồi mà vẫn nhút nhát và e ngại khi diễn đạt trước đám đông, dẫn đến sự hạn chế tinh thần làm việc theo nhóm và khả năng lãnh đạo nhóm. Nếu tâm lý nhút nhát này phổ biến rộng rãi thì sẽ ảnh hưởng đến sự phát triển của đất nước. Theo đó, hầu hết bạn trẻ nước ta mới ra trường chưa thể làm "sếp" ngay được, trong khi ở các nước tiên tiến chỉ chừng 30 tuổi là người ta đã thể hiện rõ chất lãnh đạo của mình. Tự tin phát biểu nghĩa là mạnh dạn trước công chúng. Điều này càng quan trọng đối với người trong các ngành khoa học xã hội và nhân văn vì đây là khả năng thuyết phục được người khác thông qua lời nói. Sợ không dám nói nghĩa là bỏ qua cơ hội. Để khắc phục được điều này, sinh viên phải tự học để nắm vững kiến thức và mạnh dạn phát biểu. nhưng mỗi sinh viên lớn lên trong môi trường văn hoá, xã hội khác nhau, hình thành những thói quen, cách suy nghĩ, các năng lực nhận thức, hứng thú cũng khác nhau. Điều này tạo nên sự đa dạng và sự phong phú về phong cách học, một số sinh viên học tập tích cực, chủ động, một số khác lại tỏ ra thụ động, thích im lặng ngồi nghe hơn là tranh cãi. Vậy sinh viên mong muốn gì ở giảng viên? Làm nên sự thụ động của sinh viên, lỗi cũng một phần chính là ở giảng viên. Đa số sinh viên được khảo sát mong muốn giảng viên áp dụng các phương pháp dạy học tích cực để tích cực hoá người học trong các giờ học. Có 88,8% sinh viên muốn các bài giảng của giảng viên gồm cả những tri thức mới không có trong giáo trình; 73,3% sinh viên thích được giảng viên giao làm những bài tiểu luận để giúp họ phát triển khả năng suy nghĩ độc lập, tư duy phê phán; 82,4% sinh viên thích giảng viên hỏi, khuyến khích sinh viên đặt câu hỏi, hướng dẫn sinh viên đào sâu suy nghĩ để hiểu bản chất hơn là thuyết trình suốt cả tiết học; 85,6% sinh viên muốn khi bắt đầu mỗi môn học, giáo viên nêu yêu cầu, hướng dẫn phương pháp học, tài liệu tham khảo và cách khai thác thông tin từ các tài liệu tham khảo này; 79,2% sinh viên mong muốn các môn học có nhiều giờ tự học có hướng dẫn và giải đáp thắc mắc hơn so với hiện nay. Tuy nhiên, khi đưa ra con số chỉ có 34,7% sinh viên thích hỏi và đưa ra những quan điểm của cá nhân, nhưng có dự báo rằng những đổi mới về phương pháp dạy và học theo hướng tích cực hoá người học có thể sẽ gặp những khó khăn đáng kể do nếp nghĩ và các thói quen học thụ động đã định hình ở một bộ phận lớn sinh viên hiện nay. Các nghiên cứu về tâm lý học đường cho thấy chương trình đào tạo với phương pháp giảng dạy mang tính nhồi nhét kiến thức hiện nay đã tạo ra một bộ phận không nhỏ thanh thiếu niên thụ động, thiếu khả năng thích ứng xã hội. Sinh viên luôn thụ động với khối lượng kiến thức về lý thuyết, việc thực hành, thực tập bị xem nhẹ, thậm chí bị bỏ qua, từ đó tạo ra một bộ phận không nhỏ sinh viên thụ động, vụng về, thiếu khả năng thích ứng xã hội. Thực trạng sinh viên lười lao động và học tập ngày một nhiều. Bởi lẽ gia đình cứ tưởng con em mình đang vất vả, lao tâm khổ tứ cày trên giảng đường, luôn sợ con vất vả hơn bạn bè, gởi tiền dư giả. Nào ngờ, một số bạn luôn ăn chơi sa đà, nhậu nhẹt đến suốt sáng, chơi bài bạc, game... Chờ tới khi thi, nước tới chân mới nhảy. 2- Thực trạng lối sống sinh viên chia làm 3 loại Theo một nghiên cứu của trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia Thạc sĩ Nguyễn Ánh Hồng Giảng viên Khoa Giáo dục học, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn - ĐH Quốc gia vừa hoàn thành cuộc điều tra xã hội về lối sống của sinh viên hiện nay. Sinh viên được chọn mẫu ngẫu nhiên tại ba trường thành viên Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn, Trường ĐH Bách khoa. Trên cơ sở tìm hiểu sự lựa chọn các hoạt động cơ bản của sinh viên bằng phương pháp phân tích nhân tố và phân tích phân loại đã cho thấy ba kiểu sống cơ bản của sinh viên hiện nay. 60% sống khép mình, ít tham gia hoạt động xã hội! Kiểu sống của nhóm sinh viên này chiếm tỷ lệ cao nhất trong các kiểu sống của sinh viên tại Họ vẫn chú ý đến học tập và thường gặp gỡ, thăm hỏi bạn bè và người thân nhưng thường trong phạm vi hẹp. Ngoài ra họ còn xem ti vi, đọc sách báo. Có điều họ ít tham gia vào các hoạt động xã hội, chính trị, sinh hoạt tập thể. Đây là cách sống thiếu năng động, thiếu tích cực, ít hòa nhập vào đời sống xã hội. Trước những sự kiện đang xảy ra xung quanh mình, họ luôn tỏ thái độ bàng quan. Ngay cả lửa cháy như cháy Trung tâm Quốc tế ITC cũng không hề tác động xi nhê gì đến họ! Kết quả nghiên cứu trên còn cho thấy môi trường sống đã ảnh hưởng trực tiếp đến lối sống của sinh viên. Chẳng hạn, sinh viên sống cùng với gia đình thể hiện một lối sống chăm lo bản thân và người thân, nhưng thiếu tích cực hòa nhập vào đời sống xã hội chung. Trong khi đó, những sinh viên sống xa nhà lại gắn bó với cuộc sống tập thể và xã hội hơn. Do vậy, lối sống tích cực ở họ cũng cao hơn hẳn những sinh viên cùng sống với gia đình. Đặc biệt môi trường sống ở ký túc xá đã ảnh hưởng lớn đối với việc hình thành kiểu sống này. 10% sinh viên hướng vào vui chơi, hưởng thụ!Gồm những sinh viên hướng hoạt động của mình vào việc vui chơi mang tính hưởng thụ, nhiều khi vô bổ, ít chú ý đến việc mở mang kiến thức và hoàn thiện nhân cách. Tớ chỉ thích điện thoại nào đời mới..., Phim Hàn Quốc đang chiếu tới tập..., Hàng hiệu hợp thời ở chỗ.... Đó là những điều quan tâm thường trực trong đời sống hàng ngày của nhóm sinh viên này. Tuy vậy, họ là những con người rất năng động, hứng thú với những hoạt động vui chơi, giải trí, hưởng thụ những thú vui của tuổi trẻ, thể hiện một lối sống tiêu dùng "sành điệu". Lắm khi ăn chơi kiểu bạt mạng đến quên cả lối về! 30% sinh viên say mê học tập?Và ai cũng biết rằng trách nhiệm của người sinh viên hôm nay đến giảng đường là để học hỏi, tìm kiếm một ngành nghề nào đó cho cuộc sống tương lai, hoặc để tự nâng cao kiến thức hiểu biết Nhưng điều đáng tiếc đã xảy ra chỉ có 30% trong số họ thực hiện được công việc này. Đây là nhóm sinh viên có thái độ sống tích cực, năng động, có chí hướng và say mê học tập. Những hoạt động của nhóm sinh viên này nhằm mục đích phát triển và hoàn thiện cá nhân như học thêm, làm thêm, đọc sách, đi thư viện. Đồng thời họ cũng thích xem biểu diễn nghệ thuật, tham gia vào các hoạt động xã hội, câu lạc bộ, các lễ hội truyền thống Nhóm sinh viên này hướng những hoạt động của mình vào mục đích thỏa mãn nhu cầu phát triển cá nhân, đồng thời cũng có những hoạt động hướng ngoại tích cực như hướng đến những nơi giao tiếp công cộng, đại chúng. Nơi họ đến và tham gia hoạt động là những tổ chức hoạt động chính quy với mục đích lành - Lối sống đẹp Lối sống lý tưởng Sống đẹp là phải biết ứng xử văn minh, tích cực tham gia hoạt động cộng đồng, bảo vệ môi trường, kính trọng thầy cô và xa lánh những tệ nạn trong giảng đường như quay cóp, hút thuốc, rượu bia, đánh nhau...Nhiều sinh viên luôn đầy ắp các ý tưởng độc đáo và thú vị; và họ tận dụng mọi cơ hội để biến các ý tưởng ấy thành hiện thực. Không chỉ chờ đợi cơ hội đến, họ còn tự mình tạo ra cơ hội . Đã có nhiều sinh viên nhận được bằng phát minh , sáng chế; và không ít trong số những phát minh ấy được áp dụng, được biến thành những sản phẩm hữu ích trong thực tiễn. Với thế mạnh là được đào tạo vừa toàn diện vừa chuyên sâu, sinh viên có mặt trong mọi lĩnh vực của đời sống kinh tế, xã hội của đất nước. Trong học tập, sinh viên không ngừng tự đổi mới phương phấp học sao cho lượng kiến thức họ thu được là tối đa. Không chờ đợi, thụ động dựa vào thầy cô, họ tự mình đọc sách, nghiên cứu, lấy thông tin, tài liệu từ mọi nguồn. Phần lớn sinh viên đều có khả năng thích nghi cao với mọi môi trường sinh sống và học tập. Họ không chỉ học tập trong một phạm vi hẹp ở trường, lớp; giới trẻ ngày nay luôn phát huy tinh thần học tập ở mọi nơi, mọi lúc. Không chỉ lĩnh hội tri thức của nhân loại, sinh viên Việt Nam còn tiếp thu những cái hay, cái đẹp trong mọi lĩnh vực khác như văn hóa, nghệ thuật Sự năng động của sinh viên còn được thể hiện ở việc tích cực tham gia các hoạt động xã hội như y tế, từ thiệnNgoài giờ học, những sinh viên-tuyên truyền viên hiến máu nhân đạo lại ngược xuôi đi lại mang kiến thức về hiến máu đến mọi người, mọi nhà Bằng sự năng động, sinh viên luôn tự cập nhật thông tin, kiến thức, làm mới mình phù hợp với sự thay đỏi và phát triển của xã hội. Rõ ràng, năng động và sáng tạo là những ưu điểm nổi bật của sinh viên Việt Nam thời đại mới. Một số bộ phận sinh viên luôn thể hiện mình là những con người táo bạo và tự tin. Sinh viên dám nghĩ , dám làm, dám chịu thử thách. Các ý tưởng độc đáo không chỉ nằm trong suy nghĩ mà luôn được thử nghiệm trong thực tế. Có thể thành công
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN .............................................................. VŨ THỊ HƯƠNG ẢNH HƯỞNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐẾN LỐI SỐNG SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Triết hoc ̣ Mã số 60220301 Người hướng dẫn khoa học Dương Văn Thịnh Hà nội - 2015 LỜI CAM ĐOAN Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn khoa học của Dương Văn Thịnh. Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề tài là hoàn toàn trung thực. Học viên Vũ Thị Hương LỜI CẢM ƠN Để hoàn thành luận văn thạc sĩ Triết học với đề tài “Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay”, ngoài sự cố gắng của bản thân, Em xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Khoa Triết học trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn đã đóng góp ý kiến để em hoàn thành luận văn này! Đặc biệt em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Dương Văn Thịnh, là người trực tiếp hướng dẫn khoa học trong suốt quá trình em thực hiện đề tài. Mặc dù đã cố gắng song không tránh khỏi thiếu sót, em rất mong nhận được ý kiến để luận văn của được hoàn thiện hơn! Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, ngày 15 tháng 10 năm 2015 Học Viên Vũ Thị Hương MỤC LỤC MỞ ĐẦU..........................................................................................................1 1 Lý do chọn đề tài..........................................................................................1 2 Tổng quan tình hình nghiên cứu................................................................ 3 3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu..............................................................7 4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu...............................................................8 5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu................................................ 8 6 Đóng góp của luận văn.................................................................................9 7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn..................................................9 8 Kết cấu của luận văn....................................................................................9 NỘI DUNG.................................................................................................... 10 CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỐI SỐNG SINH VIÊN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐẾN LỐI SỐNG SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY..........................................................................................10 Quan niệm về lối sống và lối sống sinh viên Việt Nam........................ 10 Quan niệm về lối sống...........................................................................10 Quan niệm về lối sống sinh viên Việt Nam..........................................17 Quan niệm về toàn cầu hóa và ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay................................................................27 Quan niệm về toàn cầu hóa..................................................................27 Biểu hiện về ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay................................................................................................. 39 Tiểu kết chương I.......................................................................................... 48 CHƯƠNG II THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP PHÁT HUY ẢNH HƯỞNG TÍCH CỰC VÀ HẠN CHẾ ẢNH HƯỞNG TIÊU CỰC CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐẾN LỐI SỐNG SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY..................49 Thực trạng ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay.................................................................................................49 Ảnh hưởng tích cực của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam. ............................................................................................................................. 49 Ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên hiện nay .........................................................................................................................64 Một số giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam.......................74 Tiểu kết chương 2..........................................................................................80 KẾT LUẬN....................................................................................................82 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................84 DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ASEAN Hiệp hội quốc gia Đông Nam Á EU Liên minh Châu Âu GDP Tổng sản phẩm quốc nội OECD Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế UNCTAD Hội nghị Liên Hợp Quốc về Thương mại và Phát triển UNDP Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc NQ Nghị quyết NICs Các nước công nghiệp mới KOVA Học bổng Kova TƯ Trung ương FDI Đầu tư trực tiếp nước ngoài MỞ ĐẦU 1 Lý do chọn đề tài Những năm gần đây, trên thế giới có nhiều biến động lớn. Một trong những biến động đó là toàn cầu hóa đang cuốn hút tất cả các nước trên thế giới. Đây là một xu thế tất yếu khách quan, hợp quy luật của thời đại mà không một quốc gia nào có thể đứng ngoài nếu không muốn bị tụt hậu. Toàn cầu hóa, một mặt đem lại cho tất cả các nước, nhất là các nước đang phát triển, những cơ hội lớn; mặt khác, nó cũng đặt ra những thách thức không nhỏ. Một trong những thách thức đáng lo ngại đó là sự phá vỡ những giá trị tinh thần truyền thống đã có từ lâu đời của các dân tộc, làm cho dân tộc này có thể bị hòa tan hay trở thành cái bóng của dân tộc khác, tức là đánh mất bản thân mình và đánh mất sức mạnh vốn có của chính dân tộc mình. Như vậy, toàn cầu hóa có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội của mọi quốc gia, trong đó có lối sống của con người. Việt Nam là nước có bề dày lịch sử lâu đời và đã trải qua nhiều sự biến động lớn. Cũng như tất cả các nước khác trên thế giới, để tồn tại và tiếp tục phát triển, Việt Nam không thể đứng ngoài dòng chảy toàn cầu hóa. Trên con đường hội nhập quốc tế, Việt Nam đã tranh thủ được nhiều thời cơ để rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển trên thế giới và trong khu vực; bên cạnh đó cũng chứa đựng những nguy cơ đe dọa những giá trị truyền thống vốn có từ bao đời nay của dân tộc, trong đó có sự thay đổi về lối sống. Trong những năm gần đây, một vấn đề rất được quan tâm là lối sống của sinh viên hiện nay. Giới trẻ, trong đó có sinh viên – đối tượng sinh ra và lớn lên trong thời kỳ đổi mới với những biến đổi vô cùng nhanh chóng, cả về đời sống vật chất lẫn đời sống tinh thần xã hội, đang là đối tượng nhạy cảm nhất trước những biến chuyển của toàn cầu hóa. Toàn cầu hóa vừa có ảnh hưởng tích cực vừa có ảnh hưởng tiêu cực đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay. Việc nghiên cứu ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống của sinh 1 viên hiện nay là rất cần thiết cho quá trình xây dựng nguồn nhân lực mới trong tình hình đất nước hội nhập. Nói đến sinh viên tức là nói đến thế hệ trẻ đang nắm trong tay những tri thức cùng với những hiểu biết về tiến bộ xã hội nói chung và sự phát triển của đất nước nói riêng. Sinh viên là một lực lượng không hề nhỏ, là lớp người trẻ được đào tạo toàn diện và đầy đủ nhất, bao gồm các chuyên ngành học trên khắp các lĩnh vực tự nhiên, xã hội, và tư duy… và chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố như chuyên ngành học, sự phân bố các trường, khu vực sinh sống và học tập… Tất cả những yếu tố đó đã hình thành nên lối sống của sinh viên. Lối sống sinh viên Việt Nam nhìn chung là đa dạng và phong phú. Xã hội phát triển càng cao, càng văn minh hiện đại, công nghệ thông tin ngày càng phát triển thì sẽ mang lại nhiều thời cơ cũng như thách thức cho con người Việt Nam nói chung và cho sinh viên Việt Nam nói riêng. Khi mà các nền văn hóa đa dạng du nhập vào Việt Nam, có những điều tốt đẹp nhưng cũng có không ít những phản văn hóa không thích hợp với tư tưởng, với văn hóa của người phương Đông. Câu hỏi đặt ra là sinh viên sẽ thích ứng như thế nào với một môi trường mới? Họ sẽ chọn lọc những cái hay, cái đẹp phù hợp với bản thân hay học theo cái xấu không phù hợp để rồi dần dần đánh mất đi truyền thống dân tộc? Mỗi người một cách thích ứng riêng, nó đã tạo nên nhiều lối sống trong sinh viên và giới trẻ. Sinh viên là lớp tri thức đại diện và quyết định tương lai đất nước, chính vì thế việc bàn về lối sống của sinh viên là điều rất quan trọng và hết sức cần thiết. Toàn cầu hóa là một làn sóng vô cùng mạnh mẽ đã ảnh hưởng đến lối sống của sinh viên không chỉ theo chiều hướng tích cực mà theo cả chiều hướng tiêu cực. Do vậy, phải nghiên cứu một cách có hệ thống những ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống của sinh viên Việt Nam để tìm ra những giải pháp phát huy những ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực 2 của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên, góp phần xây dựng lối sống sinh viên phù hợp với yêu cầu của sự phát triển con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với những lý do trên, tôi chọn đề tài “Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học của mình. 2 Tổng quan tình hình nghiên cứu Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống của người Việt Nam nói chung, sinh viên Việt Nam nói riêng là điều mà ai cũng nhận thấy. Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay, toàn cầu hóa là cản trở hay là động lực cho việc xây dựng lối sống sinh viên? Và nội dung, yêu cầu trong việc xây dựng lối sống cho sinh viên là gì, đòi hỏi phương hướng với những giải pháp gì trong việc phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên. Xung quanh vấn đề này có nhiều công trình theo những phương pháp tiếp cận khác nhau, quan điểm khác nhau, có thể khái quát một số hướng nghiên cứu sau. Thứ nhất Những công trình đề cập đến lối sống và lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay Khi bàn về lối sống và lối sống sinh viên Việt Nam đã có nhiều công trình được các tác giả nghiên cứu, điển hình như một số công trình sau Tác phẩm “ Bàn về lối sống và nếp sống xã hội chủ nghĩa” do tác giả Trần Độ chủ biên đã trình bày khá hệ thống các khái niệm và các mặt cần nghiên cứu của lối sống ở Việt Nam theo mô hình chủ nghĩa xã hội. Khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới đã có nhiều công trình nghiên cứu lối sống của thế hệ trẻ mang lại bức tranh sinh động về thực trạng lối sống của thanh niên, sinh viên. Tác giả Trần Thị Minh Đức với công trình “Ảnh hưởng của môi trường ký túc xá sinh viên với lối sống sinh viên nội trú” đã phân tích thực trạng lối sống sinh viên trong môi trường ký túc xá. Công trình “ Lối sống và nhân cách của thanh niên” của tác giả Đỗ Long trình bày mối quan hệ của lối sống với việc hình thành nhân cách cho thanh niên 3 Đề tài “ Đặc điểm lối sống sinh viên hiện nay và những phương hướng biện pháp giáo dục” của Viện nghiên cứu phát triển giáo dục đã xác định khái niệm lối sống sinh viên và nêu ra một hệ thống những đặc điểm chủ yếu của lối sống sinh viên, từ đó tác giả đưa ra phương hướng và những giải pháp nhằm giáo dục lối sống cho sinh viên. Tác giả Nguyễn Viết Chức với công trình “ Xây dựng tư tưởng, đạo đức, lối sống và đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” đã đề cập đến tầm quan trọng của việc xây dựng lối sống với đời sống văn hóa ở thủ đô Hà Nội. Khái niệm “ Lối sống” được nghiên cứu với ý nghĩa là một hình thái kinh tế - xã hội qua công trình “ Lối sống xã hội chủ nghĩa và xu thế toàn cầu hóa” do Thanh Lê làm chủ biên. Tập thể tác giả và tác giả Nguyễn Ngọc Hà với công trình “ Đặc điểm tư duy và lối sống của con người Việt Nam hiện nay một số vấn đề lý luận và thực tiễn” đã trình bày những quan điểm khác nhau về định nghĩa “ lối sống” Tác giả Hà Nhật Thăng đã bàn về đạo đức lối sống của thanh niên sinh viên trong bài “Thực trạng đạo đức, tư tưởng, chính trị, lối sống của thanh niên, sinh viên” Qua bài viết “ Xây dựng văn hóa đạo đức và lối sống văn hóa trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế” GS. TS Trần Văn Bính khẳng định toàn cầu hóa là xu thế khách quan, tất yếu đối với mọi quốc gia, tác động tích cực trên cả lĩnh vực sản xuất và lĩnh vực tinh thần, trong đó có lối sống. Những công trình nghiên cứu trên đã cung cấp cho tác giả luận văn có cơ sở để xây dựng quan niệm của mình về lối sống và lối sống sinh viên. Thứ hai Các công trình nghiên cứu về toàn cầu hóa và ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay 4 Tác phẩm “Toàn cầu hóa và những mặt trái của nó” do Nguyễn Ngọc Toàn dịch đã viết về bản chất của toàn cầu hóa, và những bất cập trong đời sống xã hội xã hội chủ nghĩa do toàn cầu hóa mang lại trên nhiều lĩnh vực. Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thị Thanh Minh năm 2007 với chủ đề “ Thách thức của toàn cầu hóa kinh tế đối với các nước đang phát triển và những bài học vượt qua thách thức cho Việt Nam” đã hệ thống hóa lý thuyết chủ yếu liên quan đến quan điểm toàn cầu hóa nền kinh tế, phân tích những đặc điểm của nước ta khi tham gia vào toàn cầu hóa kinh tế, phân tích thực tiễn tham gia quá trình toàn cầu hóa kinh tế ở một số nước đang phát triển, chỉ ra tác động hai mặt tích cực và tiêu cực của toàn cầu hóa đến các nước đang phát triển. Trong giai đoạn toàn cầu hóa, tác giả Nguyễn Thị Huyền có nói về nguy cơ suy thoái đạo đức, lối sống con người Việt Nam qua bài viết “ Toàn cầu hóa và nguy cơ suy thái đạo đức, lối sống con người Việt Nam hiện nay”. Tác giả của công trình này đã chỉ ra tác động tiêu cực của toàn cầu hóa đến lối sống của con người Việt Nam hiện nay. Công trình “Sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường với việc xây dựng đạo đức mới cho cán bộ quản lý ở nước ta” do Nguyễn Chí Mỳ chủ biên đã luận giải sự biến đổi của thang giá trị đạo đức trong cơ chế thị trường, từ đó, đề xuất phương hướng, giải pháp hình thành thang giá trị đạo đức mới, xây dựng giá trị đạo đức mới cho cán bộ quản lý trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nguyễn Trọng Chuẩn và Nguyễn Văn Huyên đã đề cập đến những giá trị truyền thống Việt Nam và những vấn đề đặt ra trong xu thế toàn cầu hóa trong công trình “Giá trị truyền thống trước những thách thức của toàn cầu hóa”. Hai tác giả trên đã chỉ ra toàn cầu hóa có thể tạo điều kiện thuận lợi để phát triển kinh tế, xã hội, nhưng lại tạo nên những thách thức cho việc giữ gìn các giá trị truyền thống của dân tộc, đòi hỏi phải có giải pháp để vượt qua những thách thức đó. 5 Thứ baCác công trình đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực và phát huy ảnh hưởng tích cực của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay Công trình “Một số biểu hiện của sự biến đổi giá trị đạo đức trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay và giải pháp khăc phục” của Nguyễn Đình Tường. Luận án tiến sỹ triết học của Nguyễn Văn Lý “Kế thừa và đổi mới các giá trị đạo đức truyền thống trong quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay” đã đưa ra những giải pháp thiết thực nhằm giáo dục, kế thừa và phát huy giá trị văn hóa truyền thống dân tộc cho sinh viên trong điều kiện hiện nay ở nước ta. Tác giả Lưu Thu Thủy với bài “Thực trạng và giải pháp giáo dục đạo đức, tư tưởng chính trị, lối sống cho học sinh, sinh viên Việt Nam” Luận án tiến sỹ triết học của Võ Văn Thắng về đề tài “ Kế thừa và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống của dân tộc trong việc xây dựng lối sống ở Việt Nam hiện nay” PGS, TS Nguyễn Văn Phúc với bài viết “ Về việc tạo ra bước chuyển mạnh mẽ trong xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta hiện na” đã luận chứng một số giải pháp căn bản để tạo ra một bước chuyển mạnh mẽ trong việc xây dựng nền đạo đức mới ở nước ta. Một số công trình trên đây đã cung cấp cho tác giả luận văn những kiến thức rất bổ ích, đồng thời gợi mở cho tác giả những nguyên tắc phương pháp luận để đề ra phương hướng và giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay theo yêu cầu của đề tài luận văn. Thứ tư, Những vấn đề đặt ra để luận văn tiếp tục nghiên cứu Một là, Các công trình nghiên cứu về lối sống sinh viên và ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên chủ yếu dưới dạng bài báo khoa học hay đề tài khoa học nhưng còn ít công trình nghiên cứu hệ thống dưới góc độ 6 triết học về ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay. Những công trình nghiên cứu về lối sống trong giai đoạn vừa qua cũng chỉ đi sâu nghiên cứu từng lĩnh vực riêng biệt của lối sống và lối sống sinh viên, chưa xem xét một cách cụ thể các yếu tố ảnh hưởng, tác động của toàn cầu hóa đến lối sống của sinh viên. Luận văn mong muốn tiếp tục kế thừa, bổ sung làm sâu sắc thêm khái niệm lối sống, lối sống sinh viên, xác định tác động của toàn cầu hóa đến các yếu tố của lối sống và tầm quan trọng của việc xây dựng lối sống sinh viên. Hai là, trong các công trình đã công bố, các tác giả đã cố gắng phân tích làm rõ thực trạng lối sống sinh viên nhưng không nhiều và còn chung chung. Các tác giả chủ yếu bàn về thực trạng lối sống con người Việt Nam. Nhưng những công trình trên đã đề cập đến những vấn đề có liên quan đến đề tài luận văn ở những góc độ khác nhau, phương pháp khác nhau, nội dung khác nhau về lối sống, xây dựng lối sống cho thanh niên, sinh viên; tác động của toàn cầu hóa đến lối sống… Tuy nhiên, còn khá ít công trình nghiên cứu một cách hệ thống dưới góc độ triết học vấn đề ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay. Xuất phát từ nội dung trên, luận văn đi sâu tìm hiểu vấn đề Ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay. Đồng thời đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế ảnh hưởng tiêu cực và phát huy ảnh hưởng tích cực đến lối sống sinh viên, hình thành ở sinh viên lối sống phù hợp với yêu cầu của thực tiễn xã hội hiện nay. 3 Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu - Mục đích nghiên cứu Làm rõ một số vấn đề lý luận và thực trạng ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay. Từ đó, đề xuất phương hướng và một số giải pháp chủ yếu nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay. 7 - Nhiệm vụ nghiên cứu + Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản về lối sống, lối sống sinh viên, toàn cầu hóa và ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay. + Phân tích thực trạng ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay + Đề xuất phương hướng và giải pháp nhằm phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay. 4 Đối tượng và phạm vi nghiên cứu - Đối tượng nghiên cứu Những ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống của sinh viên Việt Nam hiện nay. - Phạm vi nghiên cứu Đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi sinh viên đang học tại các trường đại học trong thời gian đầu thế kỷ XXI đến nay, và chỉ nghiên cứu những nét chung của lối sống sinh viên như lối sống thể hiện trong hoạt động học tập, trong giao tiếp ứng xử ở nhà trường, trong hoạt động xã hội của sinh viên. 5 Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu - Cơ sở lý luận Luận văn dựa trên những quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng cộng sản Việt Nam về đạo đức, lối sống thanh niên, sinh viên, ngoài ra luận văn còn tham khảo thêm những thành tựu khoa học của các công trình nghiên cứu liên quan tới nội dung được đề cập tới trong luận văn. - Phương pháp nghiên cứu Luận văn sử dụng tổng hợp các phương pháp nghiên cứu lịch sử và logic, phân tích và tổng hợp, so sánh…nhằm thực hiện mục tiêu mà luận văn đã đặt ra. 8 6 Đóng góp của luận văn - Luận văn góp phần xác định rõ cơ sở lý luận về ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh vên Việt Nam hiện nay. - Luận văn góp phần làm rõ thực trạng ảnh hưởng của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay. - Luận văn đề xuất một số giải pháp phát huy ảnh hưởng tích cực và hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của toàn cầu hóa đến lối sống sinh viên Việt Nam hiện nay. 7 Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn - Luận văn góp phần làm sáng tỏ tầm quan trọng của việc xây dựng lối sống cho sinh viên trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay. - Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các đoàn thể, cá nhân trực tiếp làm công tác giáo dục sinh viên và giảng dậy bộ môn có liên quan. 8 Kết cấu của luận văn Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội dung luận văn gồm 02 chương và 06 tiết. 9 NỘI DUNG CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ LỐI SỐNG SINH VIÊN VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA TOÀN CẦU HÓA ĐẾN LỐI SỐNG SINH VIÊN VIỆT NAM HIỆN NAY Quan niệm về lối sống và lối sống sinh viên Việt Nam Quan niệm về lối sống - Khái niệm về lối sống “ Lối sống” từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học như tâm lí học, giáo dục học, đạo đức học, triết học… Trong nền văn hóa Việt Nam cổ truyền không có khái niệm lối sống. Trước cách mạng Tháng Tám, khái niệm phong hóa và phong tục được dùng rộng rãi trong ngôn ngữ nói và viết. Khái niệm phong hóa vừa phản ánh sự bền vững của phong tục tập quán, vừa chỉ rõ mức độ thấm đượm nhuần nhụy và tinh tế của giáo dục và văn hóa dân tộc trong muôn mặt đời thường. Trong khi đó phong tục là lối sống đã thành nền nếp, thành nếp sống và tập quán lâu đời. Cuộc cải biến phong hóa dân tộc ở xã hội ta được mở đầu từ những năm 30 của thế kỷ XX và phát triển mạnh mẽ thành phong trào đời sống mới do chủ tịch Hồ Chí Minh phát động từ năm 1946. Từ đó việc tổ chức cuộc sống lành mạnh, khoa học trong gia đình, ngoài thôn xóm, phố phường được mọi người quan tâm. Đời sống mới tạo ra nền văn hóa mới và con người mới với lối sống mới, đạo đức mới và chuẩn giá trị mới. Lối sống mới trở thành thuật ngữ thông dụng trong cuộc sống hàng ngày và trong đời sống khoa học. Hơn thế trong khuôn khổ của chủ nghĩa xã hội trên thế giới trước đây, từ những năm 70 của thế kỷ XX, một hội đồng nghiên cứu về lối sống xã hội chủ nghĩa được thành lập và Việt Nam là một thành viên tích cực. Có thể nói thuật ngữ lối sống xuất hiện như là kết quả của quá trình cải biến xã hội nói chung và xây dựng đời sống văn hóa mới nói riêng. Và cùng 10 với quá trình xây dựng con người mới, lối sống mới được nghiên cứu sâu rộng trên bình diện khoa học. Cho đến nay, chủ đề lối sống đã trở thành đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn ở nước ta. Về mặt ngữ nghĩa, lối sống trong tiếng Pháp là mode de vie, trong tiếng Anh là mode of life hoặc way of life, trong tiếng Đức là Lebensweise. Mặc dù có nhiều tác giả, nhiều tài liệu đề cập đến khái niệm lối sống, nhưng cho đến nay vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất về vấn đề này. Trong tác phẩm “ Hệ tư tưởng Đức”, và đã nêu lên quan niệm, sản xuất là yếu tố quyết đính sự tồn tại của cá nhân và phương thức sản xuất là hình thức cơ bản của hoạt động sống của con người. – viết “Không nên nghiên cứu phương thức sản xuất ấy đơn thuần theo khía cạnh nó là sự tái sản xuất ra sự tồn tại thể xác của các cá nhân. Mà hơn thế, nó là một phương thức hoạt động nhất định của những cá nhân ấy, một hình thức nhất định của hoạt động sống của họ, một phương thức sinh sống nhất định của họ” [45,tr30] Theo lối sống chính là phương thức, là dạng hoạt động của con người, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và toàn bộ những điều kiện sinh sống của con người. Từ đó cho rằng, ở những hình thái kinh tế - xã hội khác nhau sẽ có lối sống tương ứng với những hình thái kinh tế - xã hội đó. Đặc biệt, trong những xã hội có giai cấp, lối sống cũng mang tính giai cấp. Tiếp cận lối sống trên phương diện phương thức hoạt động và tổng thể những quan hệ kinh tế, chính trị xã hội, văn hóa, cho rằng “lối sống là tổng hòa những nét cơ bản, nói lên những đặc điểm của các hoạt động sống của xã hội, dân tộc, giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong một hình thái kinh tế - xã hội nhất định”[70, Tiến sĩ triết học xô viết cũng dựa vào phạm trù hình thái kinh tế - xã hội, một phạm trù bao quát tất cả các điều kiện và những nhân tố quyết định lối sống, để xác 11 định nội dung lối sống. Ông định nghĩa lối sống là “ những hình thức cố định, điển hình của hoạt động sống cá nhân và tập đoàn của con người; những hình thức ấy nói lên các đặc điểm về sự giao tiếp, hành vi và nếp nghĩ của họ trong các lĩnh vực lao động, hoạt động xã hội – chính trị, sinh hoạt và giải trí”[ 70, Những định nghĩa bao quát này có thể phản ánh được đầy đủ “cái xã hội” của lối sống, nhưng lối sống là cái xã hội trong cái cá nhân cho nên tính chủ thể của lối sống chưa được phản ánh rõ nét trong các định nghĩa trên. Trong tiếng Việt, lối sống là một danh từ ghép gồm từ lối và từ sống. Lối là lề lối, thể thức, kiểu cách, phương thức. Sống là sinh hoạt, là quá trình hoạt động sinh vật và xã hội của mỗi con người. Theo nghĩa từ ngữ đó thì lối sống là thể thức, phương thức hoạt động của con người. Khái niệm “lối sống” bắt đầu được đề cập trong Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng và tiếp tục được đề cập đến ở các kỳ đại hội tiếp theo. Đại hội XI khẳng định “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp…làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà Nước”[22, Sự suy thoái về đạo đức diễn ra cả trong giới trẻ. Lối sống ở đây được dùng theo nghĩa hẹp, chỉ các hành vi đạo đức, cách ứng xử của con người. Quan điểm của các nhà khoa học thuộc đề tài cấp Nhà nước được nêu khái quát trong Báo cáo tổng kết chương trình KX-06 1991 – 1995 như sau “Lối sống, trong một chừng mực nhất định, là cách ứng xử của những người cụ thể trước những điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của môi trường sống. Môi trường sống là cái khách quan quy định, là điều kiện khách quan trực tiếp tác động và ảnh hưởng đến lối sống của con người, của các nhóm xã hội và cộng đồng dân cư”[61]. Định nghĩa này tiếp cận lối sống như một phương thức hoạt động thực tế của con người trong một môi trường nhất định. Và lối sống tuy chịu sự tác động khách quan của môi trường sống nhưng khi 12 trở thành lối sống thì cùng với truyền thống văn hóa, lối sống có thể biến cải môi trường tự nhiên sao cho thích hợp với hệ thống các nhu cầu sống của con người. Định nghĩa này có ưu điểm là đã làm sáng tỏ được mối quan hệ biện chứng giữa lối sống và môi trường, chỉ ra được vai trò tích cực của văn hóa lối sống và văn hóa nói chung. Trên cơ sở tiếp cận quan điểm của chủ nghĩa Mac – Lênin về lối sống, GS Vũ Khiêu trong tác phẩm “Văn hóa Việt Nam, xã hội và con người” đã định nghĩa “ Lối sống là phạm trù xã hội, khái quát toàn bộ hoạt động của các dân tộc, các giai cấp, các nhóm xã hội, các cá nhân trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống trong lao động và hưởng thụ, trong quan hệ giữa người với người, trong sinh hoạt tinh thần và văn hóa”[41, TS Nguyễn Viết Chức cho rằng “Lối sống là tổng hòa những dạng hoạt động sống điển hình và tương đối ổn định của con người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định”[09, Như vậy, trên cơ sở những quan điểm mà các tác giả đưa ra khi định nghĩa về lối sống, chúng ta có thể nhận thấy những nét tương đồng khi cho rằng lối sống là sự khái quát hay tổng hòa toàn bộ hoạt động sống của con người trong những điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất định và biểu hiện trên mọi lĩnh vực của đời sống từ lao động, trong sinh hoạt vật chất đến tinh thần, trong quan hệ giữa người với người. Từ những phân tích, nghiên cứu của các nhà nghiên cứu ở trên, ta có thể định nghĩa lối sống là phương thức sống của con người trong một chế độ xã hội nhất định được biểu hiện trên các lĩnh vực của đời sống như lao động, sản xuất, hoạt động chính trị, hoạt động văn hóa tinh thần và hoạt động giao tiếp hàng ngày. Từ định nghĩa trên, có thể thấy lối sống có những nội dung cơ bản sau 13 Thứ nhất, lối sống là tổng hòa những dạng hoạt động sống ổn định của con người được vận hành theo một bảng giá trị xã hội nào đó trong sự thống nhất với các điều kiện của một hình thái kinh tế - xã hội nhất địn. Đặc trưng bản chất nhất của lối sống trực tiếp gắn với giá trị tinh thần – văn hóa của con người. Thứ hai, lối sống chịu sự quy định của phương thức sản xuất và toàn bộ các điều kiện sống của con người. Tuy nhiên sự quy định đó phải thông qua hoạt động của chủ thể và mang dấu ấn khúc xạ bởi các chủ thể mà các chủ thể đó là con người hoặc các cộng đồng người với tư cách là sản phẩm của hoàn cảnh, đồng thời là chủ thể sáng tạo ra hoàn cảnh. Do đó, lối sống có tính chất độc lập tương đối so với sự phát triển của cơ sở hạ tầng xã hội. Nó có thể gây ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đối với phương thức sản xuất và những điều kiện khác quy định nó. Thứ ba, lối sống có tính linh hoạt và cơ động xã hội cao. Mỗi lối sống đều có đặc trưng riêng về nội dung và hình thức biểu hiện. Thứ tư, để nắm bắt được đặc trưng bản chất của lối sống khi xem xét toàn bộ các hình thức hoạt động của con người cần coi trọng đặc biệt hoạt động lao động – sản xuất, các giá trị vật chất và tinh thần. Bởi lẽ, đây là hình thức hoạt động nền tảng để con người bồi dưỡng tính người và bản chất con người – xã hộị. Thứ năm, con đường để nắm bắt nội dung và phạm vi của khái niệm lối sống là tìm hiểu các hành động xã hội, cách thức hình thành và định hình các khuôn mẫu ứng xử. Thứ sáu, lối sống xã hội nói chung đều mang tính chất văn hóa, vì việc biểu tượng hóa thế giới tự nhiên và xã hội thành thế giới của những biểu trưng văn hóa trong nhận thức, tình cảm và hành động của con người là đặc thù của xã hội loài người. Khái niệm lối sống sẽ không được tiếp cận triệt để và hệ thống nếu không tìm hiểu ý nghĩa biểu tượng từ các hành động xã hội, quá trình xã hội, quan hệ xã hội cho đến khuôn mẫu ứng xử và thể chế xã hội. 14
DANH SÁCH THÀNH VIÊN NHÓM Thị NếtPhạm Thanh NgaTrần Mỹ NgaLê Thị Thúy NgânNguyễn Kim NgânVũ Thảo NgânVũ Thị Minh NgânNguyễn Thị NgọcNguyễn Thị NguyệtNhóm trưởng Lê Thị Thúy NgânMỤC LỤCPHẦN 1 LỜI MỞ cấp thiết của đề tượng nghiên cứuNội dung nghiên cứuMục đích nghiên pháp nghiên cứuCái mới của đề tàiKết cấu của đề tàiPHẦN II NỘI 1 Tổng luận về vấn đề nghiên Khái niệm văn Khái niệm văn hóa ứng Sự thể hiện của văn hóa ứng xử qua các mối quan hệChương 2 Thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam hiện Thực trạng Một vài biểu hiện tiêu biểu của sinh viêna Bệnh vô cảmb Sinh viên trong giờ họcChương 3 Giải phápPHẦN 3 KẾT LUẬNPHẦN 1 LỜI MỞ cấp thiết của đề tàiTrong những năm gần đây, xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độchóng mặt. Nó bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng từ khắp nơi xâm nhập thế mà xã hội ngày càng phát triển, bên cạnh đó lối sống của nhiều người cũngđang dần thay đổi. Đặc biệt, một vấn đề luôn được quan tâm đến đó là văn hóa ứngxử trong thời đại ngày hóa ứng xử là một yếu tố quan trọng, được coi là một tiêu chuẩn để rènluyện, đánh giá nhân cách, đạo đức của một con người. Văn hóa ứng xử giúp conngười sống biết đối nhân xử thế, biết giao tiếp lễ độ, có ước mơ hoài bão, có lýtưởng tốt đẹp. Xã hội càng văn minh, nhu cầu về vă hóa ứng xử ngày càng cao,ứng xử một cách thông minh khôn khéo, tế nhị đạt tới mức độ nghệ thuật lại cànglà vấn đề khó, đây cũng là một thành công trong bí quyết sống hàng với tầng lớp sinh viên, một tầng lớp trẻ, khỏe, đầy năng động và nhiệt huyếtthì văn hóa ứng xử lại là yếu tố cần thiết để nâng cao kinh nghiệm sống hàng ngàycho tầng lớp này. Đây là một đề tài mặc dù không còn mới mẻ đối với chúng tanhưng sức ảnh hưởng cũng như tầm quan trọng của nó hiện nay thì không thể phủnhận được. Xu hướng hội nhập đã làm thay đổi ứng xử văn hóa của sinh viên ViệtNam. Phần lớn sự thay đổi này đều đi theo hướng tích cực sinh viên đã biết sốngcó chuẩn mực, biết nâng cao và hoàn thiện bản thân mỗi ngày. Tuy nhiên, bên cạnhđó một số sinh viên lại đi nhận thức sai về quan điểm hội nhập, sống sa ngã, ứngxử văn hóa kém cỏi, giao tiếp trong học đường và xã hội một cách bồng bột, thiếuhiểu biết. Vậy, thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam hiện nay như thếnào? Hãy cùng nhóm 8 tìm hiểu và giải đáp những vấn đè thắc mắc về vấn đề tượng nghiên cứuSinh viên Việt Nam đang theo học ở trong các trường ĐH, dung nghiên cứu Thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên mặt tốt và mặt xấu trong văn hóa ứng xửcủa sinh viên trong môi trường học đích nghiên cứuĐến với đề tài này, nhóm 8 sẽ giúp các bạn giải đáp thắc mắc, hiểu được thế nàolà ứng xử văn hóa, biết được các mối quan hệ của văn hóa, thấy rõ được thực trạngvăn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam hiện nay cũng như tìm ra các giải pháp, đềxuất để nâng cao văn hóa ứng xử của sinh việc khảo sát thực tế và tìm hiểu qua mạng Internet, nhóm 8 đã nhận ra đượcnhiều thú vị, đáng để học hỏi từ ứng xử văn hóa. Đề tài này đã giúp nhóm nângcao, rút ra được nhiều bài học và có kinh nghiệm hơn về ứng xử văn hóa hàng ngàytrong đời sống thực tiễn của chính mình. Từ đó, nhóm đã đưa ra nhiều đóng gópnhằm hoàn thiện hơn về đề tài hay chính là vấn đề văn hóa đang rất nóng của pháp nghiên cứu- Phương pháp nghiên cứu định tính- Phương pháp phân tích tổng hợp- Phương pháp khảo sát thực mới của đề tàiĐối với đề tài nghiên cứu của nhóm, nhóm đã nghiên cứu một cách tổng thể vềthực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam, đặc biệt là nêu ra các biểu hiệncụ thể của sinh viên trong các giờ học trên giảng đường, từ đó dễ dàng đưa ra đượcgiải pháp đúng đắn đối với các hiện tượng Kết cấu của đề tàiBài thảo luận được nhóm chia làm 3 chươngChương 1 Tổng luận về vấn đề nghiên cứu các khái niệm về văn hóa, văn hóaứng xử và hình thức biểu hiện của nóChương 2 Thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam hiện nayChương 3 Giải pháp, kiến nghị, đề xuấtPHẦN 2 NỘI DUNGLời mở đầuChương 1 Tổng luận về đề tài nghiên Khái niệm văn hóa- Văn hóa là một trong những mặt cơ bản của đời sống xã Văn hóa là 1 hệ thống bao gồm các giá trị, các cơ cấu, kỹ thuật, các thể chế tưtưởng… được hình thành trong quá trình hoạt động tồn tại và phát triển vủa conngười, được bảo tồn và truyền từ thế hệ này qua thế hệ Hệ thống văn hóa có chức năng như là một khuôn mẫu chuẩn mực các hành vi lại, Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa được tạo ra và phát triểntrong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn hóa lại tham giavào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn hóa đượctruyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa. Văn hóađược tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội của conngười. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiệntrong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng nhưtrong giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo Khái niệm văn hóa ứng xửỨng xử là một biểu hiện của giao tiếp, là sự phản ứng của con người trước sự tácđộng của người khác với mình trong một tình huống nhất định được thể hiện quathái độ, hành vi, cử chỉ, cách nói năng của con người nhằm đạt kết quả tốt trongmối quan hệ giữa con người với nhau. Xét trên bình diện nhân cách thì bản chấtcủa ứng xử chính là những đặc điểm tính cách của cá nhân được thể hiện qua tháiđộ, hành vi, cử chỉ và cách nói năng của cá nhân với những người chung hóa ứng xử được hiểu là dùng thái độ, cử chi, hành vi của con người tronggiao tiếp đời sống với những người và môi trường xung vi ứng xử văn hóa là những biểu hiện hoạt động bên ngoài của con người,được thể hiện ở lối sống, nếp sống, suy nghĩ và cách ứng xử của con người đối vớibản thân, với những người chung quanh, trong công việc và môi trường hoạt độnghằng Sự thể hiện của văn hóa ứng xử qua các mối quan hệHành vi ứng xử văn hóa được coi là các giá trị văn hóa, đạo đức, thẩm mỹ của mỗicá nhân Nó được biểu hiện trong mối quan hệ với những người chung quanh, tronghọc tập, công tác, với bạn bè và thậm chí ngay cả với chính bản thân mình. Conngười chúng ta sống giữa các mối quan hệ xã hội đa dạng, phức tạp. Các mối quanhệ này có ảnh hưởng đến sự hình thành, phát triển nhâncách và xu hướng hành động của họ. Chính cuộc sống đòi hỏi mỗi người phải cócách xử thế đúng đắn, thể hiện qua phép lịch sự trong quá trình giao tiếp với cácđối tác khác nhau. Cách xử thế của mỗi cá nhân trong sự giao tiếp xã hội, được gắnvới nền văn minh của từng thời đại và đặc điểm văn hoá của từng dân tộc, khu vựcdân cư. Các biểu hiện của cách ứng xử mang tính dân tộc, tính giai cấp, giới tính,tuổi tác... Nó chịu ảnh hưởng của nghề nghiệp, địa vị xã hội và cũng mang đặcđiểm cá tính của mỗi con người. Phép lịch sự trong việc ứng xử chính là một sựtổng hợp các nghi thức được biểu hiện ra trong cách giao tiếp, nhưng không phải lànhững ứng xử một cách máy móc mà là những việc làm, lời ăn tiếng nói linh hoạt,nhiều vẻ, gắn với từng hoàn cảnh, từng môi trường cụ thể và tuỳ theo đối tác gặpgỡ. Ví dụ Khi gặp gỡ người quen, ta chào, chứng tỏ ta đã nhận ra họ, kèm theo lờichào có thể là bắt tay, mỉm cười…Lời chào hỏi, liên quan đến những quy ước nhấtđịnh, chịu ảnh hưởng của những đặc điểm văn hoá dân tộc, vùng miền. Mục đíchvà ý nghĩa của lời chào hỏi chính là ta tự đặt mình trong mối quan hệ của cách xửthế đã được quy định và được xã hội chấp nhận. Khi muốn thiết lập mối quan hệgiữa những người mới gặp, thì lời giới thiệu của người thứ ba là rất cần thiết. Phéplịch sự dạy chúng ta tôn trọng người khác đó chính là một nghệ thuật sống tế trọng người tiếp xúc với mình chính là ta đang tôn trọng chính bản thân thời buổi cơ chế thị trường hiện nay, cuộc sống ngoài xã hội diễn ra vô cùngphức tạp, đa dạng, những lời khuyên về những hành động ứng xử có văn hóa quảthật là khó đối với một số bạn trẻ hiện nay, nói thế nhưng không có nghĩa là thế hệtrẻ hiện nay không quan tâm tới việc ứng xử có văn hóa, mà do áp lực của học tập,công việc nên đôi khi họ chưa chú trọng tới việc ứng xử với nhau có tế nhị và cóvăn hóa. Để có thể tiếp xúc trò chuyện với người khác một cách thoải mái thì bảnthân chúng ta phải biết thích ứng với những gì đang diễn ra xung quanh mình. Sựcân bằng tình cảm đó sẽ đem lại cho ta một cảm giác thoải mái, tin tưởng trong sựgiao ứng xử, và ứng xử có tế nhị là không nên làm phiền người khác, không đisâu vào đời tư của họ, biết giữ một khoảng cách tình cảm giữa mình với người tiếpxúc, đặc biệt khi mới gặp, không nên kể chuyện đời tư của mình một cách dễ đãi,không mời đến nhà những người ít quen đời sống sinh viên, văn hóa ứng xử được thể hiện khá đa dạng. Văn hóa ứngxử được thể hiện chính trong nhà trường và công cộng . Đó chính là cách ăn mặc,nghe, nói, đi đứng, thái độ, phong thái… của sinh viên với đối với hoàn cảnh vàđối tượng xung quanh. Đó là tổng hòa của cách ứng xử với bạn bè, thầy cô và cácmối quan hệ khác trong xã tiên là hình thức, đó là cách ăn mặc đầu tóc, cần phù hợp với hoàn cảnh. Khiđi học trang phục chỉ cần thoải mái, lịch sự; đi chơi trang phục có thể cầu kì, chảichuốt hơn nhưng cũng có chừng mực để không gây ra sự phản cảm, quá lố. Thứhai chính là cách giao tiếp ứng xử với mọi người trong nhà trường và ngoài xã người đều cần được tôn trọng trong mọi trường hợp và thái độ, hành động, lờinói cần có chừng mực và phù hợp hoàn cảnh. Ví dụ, với giáo viên, là người bạnquen ngoài xã hội nhưng trong giờ học vẫn cần có thái độ cư xử đúng mực. Thứ bachính là phong thái, tác phong. Đó chính là dáng dấp đi lại hay bất kể cử động nàocủa bạn. Sau hình thức, nó chính là thứ tiếp theo gây ấn tượng với người xungquanh trước khi bạn giao tiếp với họ. Một phong thái tự tin với dáng đi chắc chắn,lưng thẳng, ngẩng cao đầu chắc hẳn sẽ gây được nhiều thiện cảm và tin cậy cùng chính là cách ứng xử của sinh viên với môi trường và cộng đồng. Điềuđó được thể hiện qua những việc rất nhỏ như không xả rác linh tinh, chen lấn, dẫmlên cỏ để đi đường tắt…Nếu có cách đối nhân xử thế đúng đắn, có phép lịch sự trong giao tiếp thì người tasẽ có nhận thức đúng đắn về đạo đức tư cách lối sống của mình. Điều này giúpchúng ta ngày càng trưởng thành lên và có kinh nghiệm sống ngày càng 2. Thực trạng văn hóa ứng xử của sinh viên Việt Nam hiện Thực trạng chungTrong những năm gần đây xã hội đang thay đổi từng ngày với một tốc độ chóngmặt. Nó bị ảnh hưởng bởi những luồng tư tưởng từ khắp nơi xâm nhập vào. Vì thếmà xã hội ngày càng phát triển nhưng bên cạnh đó nó cũng làm thay đổi về tưtưởng về lối sống của nhiều người. Đặc biệt ở đây, một vấn đề rất được quan tâm làvăn hóa ứng xử của sinh viên ngày nay trong môi trường học tập và xã nay, số lượng sinh viên đại học ngày càng tăng. Với lứa tuổi đôi mươi, phongcách sống trẻ trung, năng động, có hiểu biết, các em đã góp phần làm đẹp cho xãhội. Những hành động cao cả, đầy nghĩa khí của sinh viên như quên mình cứungười, giúp đỡ, quan tâm, động viên những bạn sinh viên có hoàn cảnh khó khăn,kính trọng thầy cô giáo, biết thương yêu cha mẹ, anh chị em, có thái độ phản khángvới những ứng xử không đẹp mắt của bạn bè và những người khác đang ngày càngđược xã hội ghi thực trạng văn hoá học đường ngày nay như thế nào? Phần lớn thế hệ trẻ trongnhà trường hiện nay có kiến thức rất rộng, nhanh nhạy trong nắm bắt thông tin cósức khoẻ tốt, tinh thần cầu thị trong học tập, khả năng ứng dụng những kiến thứchọc vào thực tiễn cao, quý trọng thầy cô, đoàn kết với bạn bè sống có kỷ cương,không ngừng phấn đấu vươn nên trong học tập và trong cuộc cạnh đó, trong sinh viên vẫn tồn tại không ít những kiểu ứng xử không phùhợp với truyền thống văn hóa dân tộc, vụng về, thiếu tinh tế. Bên cạnh một số sinhviên có ý thức học tập tốt, nghiêm túc trong các kỳ thi thì vẫn còn những sinh viênmải mê với đánh bài ăn tiền, chơi số đề, uống rượu rồi quấy phá làm mất trật kỳ thi thì chuẩn bị tài liệu phô tô thu nhỏ để đưa vào phòng thi sử dụng hoặcchép bài của bạn. Nếu thầy, cô giáo coi thi nghiêm túc nhắc nhở thì vừa ra khỏiphòng thi đã dùng những từ không mấy tốt đẹp. Thử hỏi rằng những sinh viên nhưvậy làm sao có thể trang bị cho mình những kiến thức cần thiết để sau này tự tinbước vào đời. Truyền thống của dân tộc Việt Nam là “tôn sư trọng đạo”, “nhất tự visư, bán tự vi sư” thì những truyền thống đó đang bị cơ chế thị trường làm mai số sinh viên gặp thầy, cô giáo đã giảng dạy mình cũng không chào hỏi. Khikhông có mặt thầy, cô giáo thì dùng những từ thiếu tôn kính. Tuy nhiên, thực trạngnày có nguyên nhân từ cả phía sinh viên và thầy cô giáo. Nhưng dù như thế nào thìsinh viên vẫn phải thực hiện tốt bổn phận của mình trong giao tiếp, ứng xử vớithầy, cô giáo và mọi xử của sinh viên với bạn bè cũng là một nội dung quan trọng trong văn hóahọc đường. Sinh viên thường có tinh thần nghĩa hiệp. Khi bạn bè gặp khó khăn sẵnsàng chia sẻ, động viên. Một lời cảm ơn, xin lỗi nhẹ nhàng chân thành có thể để lạiấn tượng tốt, có thể giải tỏa được những vướng mắc tạo nên mâu thuẫn không đángcó. Nhưng một số sinh viên thường có thái độ quá khích, thiếu bình tĩnh khi bạn bèlàm mình không hài lòng. Vì vậy, chỉ một cái nhìn “không bình thường”, chỉ mộtva chạm nhẹ, một mâu thuẫn nhỏ là có thể có những lời nói thô tục, khiếm nhã,thậm chí gây gổ, đánh xử của sinh viên trong các cuộc họp, hội nghị, trong lớp học, trong các buổimít tinh cũng là một vấn đề cần bàn. Trong lớp học, một số sinh viên nói chuyệnriêng, gây ồn ào ảnh hưởng đến việc tiếp thu bài của cả lớp và giảng bài của thầycô giáo. Một số sinh viên sử dụng điện thoại di động để truy cập mạng hoặc chơitrò chơi trong giờ học. Có những sinh viên ngủ trong lớp, khi giảng viên hỏi về bàihọc mới đứng dậy ngơ ngác hoặc bỏ giờ ra quán ngồi. Trong buổi họp, mít tinhngười nào lên phát biểu cứ phát biểu còn sinh viên cứ nói chuyện rào rào, khi diễngiải phát biểu xong cũng không vỗ tay tán thưởng. Xem biểu diễn văn nghệ khi kếtthúc tiết mục cũng chỉ vỗ tay lẹt đẹt để cổ vũ. Trong buổi lễ tổng kết, đến chươngtrình khen thưởng, nhìn lại chỉ còn một nửa sinh viên trong hội xử của sinh viên trên facebook có những biểu hiện không tốt. Một số sinhviên sử dụng những từ lóng, khó hiểu. Có những sinh viên bất cứ chuyện gì cũngđưa lên facebook trình làng, kể cả chuyện tế nhị. Trong gia đình, một số sinh viênhầu như không có thói quen đi thưa, về chào, cãi lại bố mẹ, ông bà với thái độ hỗnláo, chi tiêu quá mức so với hoàn cảnh gia đình gây nợ nần…Một bộ phận nhỏ sinh viên có biểu hiện của lối sống thực dụng, phủ nhận nhữnggiá trị đạo đức truyền thống, vi phạm Luật Giao thông, vi phạm giờ giấc làm việc,học tập, ứng xử chưa đúng với môi trường sư phạm, làm ảnh hưởng đến văn hóaứng xử trong nhà trường.* Nguyên nhânCó nhiều nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong ứng xử của sinh Trước hết là do nhà trường chưa chú trọng vấn đề này trong đào tạo, bồi trường chủ yếu chú trọng dạy chữ, chưa thực sự xem trọng việc dạy người,trong đó có vấn đề trang bị cho sinh viên kỹ năng mềm nói chung và kỹ năng giaotiếp ứng xử nói Đoàn thanh niên nhà trường chưa chú trọng đẩy mạnh sinh hoạt văn hóa trongsinh viên, chưa định hướng cho sinh viên trong ứng Một số gia đình chưa chú trọng giáo dục ứng xử cho con cái từ khi còn nhỏ, nêndẫn đến thói quen nói trống không, nói bốp chát, sống tùy tiện, cẩu thả, bừa bộn vàcoi đó là điều bình Nền kinh tế thị trường cũng tác động không nhỏ đến hành vi ứng xử của sinhviên. Kinh tế thị trường coi trọng đồng tiền, lấy đồng tiền làm động lực. Điều đódẫn đến không ít người bất chấp tất cả vì đồng tiền đối xử lạnh lùng, tàn nhẫn vớingười khác, vì đồng tiền có những người tính toán chi li, đưa lên bàn cân điều cólợi và không có lợi, sống thực dụng, có lợi thì mới quan hệ. Điều đó tác độngkhông nhỏ đến ứng xử của sinh Một số sinh viên thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí rèn luyện, thiếu chín chắn, không đủkhả năng vượt qua những cám dỗ của đời thường. Thêm vào đó cuộc sống có nhiềumối quan hệ phức tạp làm cho sinh viên lúng túng, ngỡ ngàng, không xác địnhđược đâu là chuẩn mực đúng, đâu là sai trái cần tránh. Đặc điểm văn hóa vùngmiền cũng tạo nên ứng xử khác nhau của sinh Về phía giảng viên, có một số giảng viên chưa thực sự gương mẫu, chuẩn mựctrong giao tiếp, ứng xử, bài giảng thiếu hấp dẫn làm cho sinh viên thiếu sự tôntrọng, nhàm chán, dẫn đến những sai lầm trong ứng Một vài biểu hiện tiêu biểu của sinh viêna Bệnh vô cảmVô cảm thật ra không còn chỉ một trạng thái về tinh thần của con người nữa mà trởthành một căn bệnh đáng lo ngại, thường gặp ở nhiều bạn trẻ hiện nay. Càng đi sâuvào vòng xoáy cuộc sống hiện đại, dường như vô cảm trở thành một căn bệnh nany khó nhân dẫn đến căn bệnh khó chữa này bắt nguồn từ chữ “Sợ” Sợ liên lụy,sợ chuốc họa vào thân, sợ gặp phải phiền phức v…v… đã khiến cho mọi ngườixung quanh nhất là giới trẻ hiện nay trở nên vô cảm. Họ không còn quan tâm hoặcthích thú với những hoạt động, những sự kiện trong đại, những vấn đề quan trọngcủa cộng đồng, của xã hội, của đất nước. Vì đơn giản họ chỉ muốn được sống choriêng bản thân mình, cho lợi ích của mình, không phải lo âu về những phiền toáicủa người nhân thứ hai dẫn đến căn bệnh vô cảm này chính là sự kích động tinh thầncủa thế hệ trẻ khi xem phim hành động hay chơi game – trò chơi bạo lực đã làmcho con người trở nên sắt đá, tính tình nguội lạnh, chẳng còn cảm giác hay suynghĩ gì về những điều xung quanh mìnhCác bạn có thể dễ dàng nhận thấy ngày nay khi ra đường nếu không may gặp phảicướp giật mà có la thật to, thật lớn kêu cướp thì mọi người xung quanh cũng chỉđứng nhìn và ít khi nào có một “hiệp sĩ đường phố” đứng ra bắt cướp và giúp đỡbạn. Cũng có những trường hợp té xe hay tai nạn trên đường mọi người đi đườngxung quanh nhìn thấy, họ ngoái đầu nhìn, họ chỉ trỏ và họ quay lưng cả trên các trang mạng xã hội, khi có một ai đó không may qua đời, haynhững sự việc nào đó không vui xảy ra thì các bạn trẻ còn sẵn sàng lập ra nhữngfanpage đại loại như là 1000000 like cho ca sĩ X sống lại, hay là 1000000 cho Avà B quay lại với nhau? Liệu chỉ một cái nhấp chuột có thể cải tử hoàn sinh, và chỉmột cái nhấp chuột có thể hóa giải mọi thứ, biến xấu thành tốt? Tất cả chỉ vì lợi íchcủa bản thân, vì kinh đoạn clip ta thấy dòng chữ “ Vô cảm, sẽ không còn ai thấy bạn”. Đúng vậy,nếu khi ta thờ ơ với những người khác khi gặp nạn thì đồng nghĩa với việc ta cũngsẽ bị người khác thờ Sinh viên trong giờ họcHoạt động của sinh viên trong giờ lên lớp rất “phong phú”, “đa dạng”, vì mỗingười sẽ chọn cho mình một cách tiếp thu khác nhau…Khi lười học, khi môn học ấy “cực kì chán”, khi không hứng thú, khi vì một vài lído không chính đáng, sinh viên có thể cúp học bất cứ lúc nào. Nhưng nếu có điểmdanh, bắt buộc đi, thì họ sẽ miễn cưỡng đến trường. Và họ làm gì trong giờ học?- Chăm chú nghe giảng chiếm rất ít-Chú ý nghe giảng giúp tiếp thu bài giảng sâuBiểu hiện Thường ngồi bàn đầu, chăm chú nghe giảng, tích cực phát biểu, đặt vấnđề hỏi lại thầy cô, siêng làm bài tập, chép đầy đủ nội dung trong bài giảng, ghi chúthêm một số điều không có trong sách vở, lúc có thuyết trình thì hăng say nghe,hăng say đăng kí, hăng say đặt vấn đề. Dù môn học có chán cách mấy, dù buồn ngủđến thế nào, họ vẫn lắng nghe với phương châm “thà học nhiều còn hơn bỏ sót”.Chỉ trong trường hợp bất khả kháng, họ mới nghỉ học. Tóm lại, họ là “ngọc trongđá”, lâu lâu mới thấy được một Nói chuyện-Trong tiết học mà thoải mái như giờ ra chơiBiểu hiện Thường ngồi bàn giữa hoặc bàn cuối, đôi khi ngồi bàn đầu. Họ tụm lạivới nhau theo từng cặp, hay một nhóm ba người, bốn người. Họ nói rất khẽ, và họhăng say vào câu chuyện, quên cả không gian, thời gian. Khi có một số nội dungcần ghi chú, họ sẽ “nghỉ ngơi” để chép miệt mài, sau đó tiếp tục tán chuyện. Chủđề họ nói là vô cùng bao la, rộng lớn, họ tập trung, lao lực hết mực chỉ để đượcnói, được trò chuyện và xua tan đi nỗi uể oải chán chường. Thời điểm nói chủ yếuvào lúc khoảng 30 phút tính từ khi tiết học bắt đầu, và có thể kéo dài cho đến khinghỉ giữa giờ, thậm chí đến cuối tiết Suy nghĩ bâng quơ-Biểu hiện Nhìn giảng viên, nhìn bảng, nhìn quanh lớp, nhìn ra cửa sổ, sau đó tậptrung nhìn về một điểm nào đó nhưng tâm trí vẫn hướng về những điều xa xôi,chẳng hạn như mai này mình sẽ ra sao, làm gì, “nửa kia” của mình là ai, ngày mainên đi uống cà phê hay xem đá bóng, tối nay không ngủ thì nên làm gì, giờ này bamẹ đang thế nào… Có khi giảng viên kể một câu chuyện, họ bị đắm chìm trongcâu chuyện ví dụ đó, và tưởng tượng thêm một vài tình tiết khác cho đến cuốigiờ…- Giết thời gian-Xem phim ngay trong tiết giảngBiểu hiện Họ nguệch ngoạc vài dòng lên giấy, vẽ những gì mình tưởng tượng, hớpmột ngụm nước, ăn một viên kẹo, lấy máy tính ra bấm, chọc ghẹo người ngồi kếbên, mân mê quyển sách, liếc sang chiếc đồng hồ của tên ngồi trước, nhìn sang mộtbạn nữ đáng yêu, xem cách trình bày slide trên máy chiếu… Nói tóm lại, họ làmnhững việc không tên vô nghĩa để mong thời gian trôi qua thật mau. Nhưng thườngthì càng trông đợi, càng thấy mọi thứ diễn ra vô cùng chậm…- “Ôm” điện thoại-Điện thoại cũng là nguyên nhân khiến sinh viên sao nhãngThời hi-tek, chiếc điện thoại là “vật bất li thân”, thế nên cứ 5 phút, sinh viên lại lôiđiện thoại ra xem giờ cũng không còn là chuyện lạ. Đôi khi họ sẽ nhắn tin qua lại,chat, vào web, nghe nhạc, hoặc chơi game trên điện thoại. Hết pin, đôi khi họ sạctrực tiếp trong giảng đường! Thời gian trôi, họ mải mê với chiếc điện thoại…- Ngủ-Ngủ trên giảng đườngBan đầu, họ cố chống cằm và nghe giảng chăm chú để xua tan đi cơn mệt mỏi. Rồihọ gục xuống bàn tai vẫn chăm chú nghe giảng, chỉ là họ hơi buồn ngủ tí thôi,sau đó họ ngủ quên từ khi nào chẳng rõ. Cho đến khi có một tràng pháo tay, mộtcâu nói nhấn mạnh, một tiếng ồn lạ nào đó, họ mới sực tỉnh, và với cái đầu nhứcnhư búa bổ do ngủ chưa đủ giấc và do ngủ gật, họ tiếp tục nghe giảng mà đầutrống rỗng, chẳng có khái niệm rõ rệt…Có vẻ như là siêng năng, nhưng…- Ghi ghi ghi…-Biểu hiện Họ ngồi thẳng, im lặng và ghi chép, nhưng họ nghe “tiếng được tiếngkhông”, vì họ lắng nghe như phản xạ, nhưng đầu óc mải mê nghĩ đến nhữngchuyện khác, hay lo ra, muốn được về… Đôi khi họ sẽ che miệng ngáp, gục đầuxuống rồi lại thẳng người ngay, tiếp tục nghe giảng… Thi thoảng họ lại xem đồnghồ, lôi điện thoại ra nhắn tin, nói chuyện với bạn bên cạnh… Tóm lại, họ hoạt độngrất nhiều, mà tiếp thu được bao nhiêu thì chỉ có họ mới hiểu…Dù họ làm gì trong giờ học đi chăng nữa, thì khi hết giờ, họ đều có chung mộtđiểm gương mặt tỉnh táo, thoải mái vô cùng và hứng khởi khi… ra về !?Chương 3. Giải pháp, kiến nghị, đề xuấtĐể sinh viên có thể ứng xử tốt hơn nhằm góp phần xây dựng văn hóa học đườngtrong sáng, lành mạnh, trước hết mỗi sinh viên cần có ý chí quyết tâm thay đổicách ứng xử chưa phù hợp, chưa văn hóa của mình. Trong hành trang để bước vàođời của sinh viên, không thể thiếu kiến thức về giao tiếp, ứng xử. Vì vậy, ngoàiviệc bồi dưỡng rèn luyện về chuyên môn, sinh viên cần nhiệt tình tham gia cácphong trào thi đua do đoàn trường, nhà trường phát động. Thông qua tham gia cáchoạt động đó, sinh viên sẽ mở rộng mối quan hệ của mình, từ đó rèn luyện đượcphong thái bình tĩnh, tự tin, chủ động, khéo léo trong giao tiếp, ứng xử. Khi nhàtrường tổ chức các buổi nói chuyện về kỹ năng mềm, sinh viên nên tham gia để tựmình rút ra những điều bổ ích trong giao tiếp, ứng xử. Nếu như sinh viên luôn quantâm đến vấn đề này và có ý chí rèn luyện thì nhất định sẽ thành một trí thức có vănhóa, có thể giao tiếp, ứng xử thông minh, khéo léo, tế nhị trong mọi trường này sẽ góp phần không nhỏ cho thành công trong sự nghiệp và giải quyết tốtmọi mối quan hệ trong cuộc cạnh chú trọng giảng dạy kiến thức chuyên môn, nhà trường cần chú trọnggiảng dạy, bồi dưỡng văn hóa giao tiếp, ứng xử. Nhà trường không nên chỉ chútrọng việc dạy chữ mà xem nhẹ việc dạy người. Đưa môn học giao tiếp, ứng xửthành một môn học bắt buộc. Chú trọng mở các lớp bồi dưỡng kỹ năng mềm chosinh viên. Tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm về chủ đề văn hóa học đường nóichung và văn hóa giao tiếp, ứng xử nói riêng để sinh viên có cơ hội trao đổi suynghĩ của mình về vấn đề này và tiếp thu những cách ứng xử có văn trường cũng cần ban hành những quy định về văn hóa học đường, trong đó cóvăn hóa giao tiếp ứng xử để có sự ràng buộc nhất định ứng xử của sinh viên, hạnchế những trường hợp sinh viên ứng xử thiếu văn hóa với thầy cô giáo, với bạn chế này cũng cần phải có quy định về chế tài thực hiện để nếu sinh viên nào viphạm sẽ bị xử lý, nhẹ nhất là trừ điểm rèn luyện. Đoàn thanh niên nhà trường cũngcần phải tổ chức các diễn đàn về giao tiếp, ứng xử của sinh viên, tổ chức các cuộcgiao lưu với sinh viên các trường bạn, với thanh niên ở các cơ quan, địa phươngkhác. . .Để sinh viên có thể giao tiếp, ứng xử có văn hóa, không thể không nói đến ứng xửcủa thầy, cô giáo. Thầy, cô giáo là mẫu mực cho các em trong ứng xử. Nếu thầy, côgiáo chưa làm được điều đó thì thật khó mà giáo dục sinh viên về vấn đề này. Dođó, mỗi lời nói, thái độ, hành động, của thầy, cô giáo phải thực sự là chuẩnmực để các em noi theo. Nếu thầy giáo hút thuốc nơi công cộng thì làm sao có thểphê bình được sinh viên khi các em cũng làm như vậy. Sinh viên là lứa tuổi giàulòng tự trọng lại chưa thật sự chín chắn, dễ xốc nổi, do đó, nếu các em có lỗi, khiphê bình cũng cần khéo léo, nhẹ nhàng, tế nhị. Thực hiện được như vậy, các em sẽdễ dàng tiếp thu để sửa chữa. Ngược lại, nếu nóng nảy thiếu tôn trọng thì các em sẽphản kháng gay gắt, nhất là đối với những em có cá tính. Chúng ta nên nhớ rằngkhông phải cứ làm thầy là nói gì cũng được, trò cũng phải nghe. Dù thời đại nào đichăng nữa thì “chính danh định phận” của Khổng Tử vẫn luôn đúng “Thầy phải rathầy thì mới có trò ra trò”. Do đó, bản thân thầy, cô giáo nhất là lứa tuổi còn trẻcũng cần phải bồi dưỡng về cư xử có văn hóa cho bản đình cũng là một yếu tố quan trọng tác động đến việc giáo dục, bồi dưỡng ứngxử có văn hóa cho sinh viên. Do đó, các bậc phụ huynh phải hết sức chú trọngtrong giao tiếp ứng xử với nhau, với con cái, với họ hàng, láng giềng, đồngnghiệp… Ứng xử của cha mẹ, ông bà là ứng xử mà các em sớm tiếp nhận nhấttrong cuộc đời và trực tiếp nhất, có ảnh hưởng nhiều nhất. Cha mẹ ứng xử với nhauthiếu văn hóa thì làm sao con có thể ứng xử có văn hóa được. Ngày một ngày hai,ứng xử của gia đình đã thành nếp ứng xử của các em. Do đó, hơn bao giờ hết, giađình phải là nơi thể hiện sự ứng xử có văn hóa để sinh viên dễ dàng tiếp nhận Tử cũng từng nói “quân quân, thần thần, phụ phụ, tử tử” nghĩa là “vua phảira vua, tôi phải ra tôi, cha phải ra cha, con phải ra con”. Vì vây, muốn con làm trọnbổn phận con thì trước hết, cha mẹ phải làm tròn bổn phận của cha trường xã hội cũng là yếu tố tác động không nhỏ đến ứng xử của sinh viên. Vìvậy, các phương tiện thông tin đại chúng phải tuyên truyền cho những hành vi ứngxử có văn hóa, tinh tế, phù hợp với truyền thống dân tộc của mọi lứa tuổi, mọi tầnglớp trong xã hội nói chung và của sinh viên nói riêng. Đồng thời, cần phải lên ánnhững hành vi ứng xử thiếu văn hóa. Có như vậy mới có thể xây dựng một phongcách ứng xử đẹp cho sinh viên nói riêng và cho tất cả mọi người Việt Nam. Điềunày rất quan trọng trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay. Thế giới sẽ nghĩ gì vềhình ảnh nước Việt Nam khi tiếp xúc với tầng lớp trí thức trẻ của nước ta lại cư xửthiếu văn hóa? Vì vậy, chú trọng bồi dưỡng ứng xử có văn hóa cho sinh viên là mộtnội dung quan trọng trong sự nghiệp giáo 3 KẾT LUẬNĐã đến lúc xã hội cần nhìn nhận vấn đề đạo đức học sinh, sinh viên trong nhàtrường hiện nay với một tinh thần trách nhiệm và nghiêm túc. Cần phải đổi mớihoàn toàn cách thức mà lâu nay chúng ta đã dùng để giáo dục đạo đức học sinh,sinh viên. Bản thân giáo dục đã mang tính xã hội hóa, nhà nước cần tạo điều kiệnđể toàn dân tham gia vào công tác giáo dục học sinh, sinh viên. Điều quan trọng làcần có một môi trường xã hội lành mạnh, mọi người sống tuân thủ pháp luật và tôntrọng những giá trị đạo đức xã hội. Một môi trường xã hội tốt sẽ tác động vào nhậnthức của học sinh, sinh viên và các em cũng phải tuân thủ những nguyên tắc ứngxử đã được học trong nhà trường mà cả xã hội đang áp DỰNG BẢN CÂU HỎICâu 1. Theo bạn, sinh viên xưng hô theo kiểu "ông" và "bà" thay vì xưng hô “cậu”và tớ là nên hay không nên?A Nên vì như thế mới phong cách giới trẻB Không nên vì không đúng với cách xưng hô của người Việt NamCâu 2. Đối với những môn học bạn ko thích, ngồi trong lớp bạn sẽA Vẫn ghi chép và nghe giảngB Làm việc khácCâu 3. Bạn có tham gia hoạt động tình nguyện không?A CóB KhôngCâu 4. Khi có các chương trình kêu gọi ủng hộ các hoàn cảnh khó khăn ở cổngtrường bạn, bạn sẽA Tìm hiểu và ủng hộ chương trình nếu có thểB Đi qua và không quan tâmCâu 4. Nếu đủ các điều kiện, bạn có hiến máu tình nguyện ko?A CóB Không muốnCâu 5. Bạn suy nghĩ như nào về hành động xả rác bừa bãi của sinh viên? Bạn đãtừng bao giờ làm vậy chưa?Câu 6. Bạn đã từng ngủ gật trong lớp học bao giờ chưa kể cả giờ giải lao?Câu LIỆU THAM KHẢO1. Slide môn Phương pháp nghiên cứu khoa học – Trường Đại học Thương mại2. Tiểu luận “Sự cần thiết của văn hóa ứng xử” – sv trường Đại học Khoa họcxã hội và nhân văn3. Nguồn tài liệu từ internet- />- />- />- />CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc*****TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠIKHOA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾBIÊN BẢN HỌP NHÓM Lần 1Môn học Phương pháp nghiên cứu khoa họcThực hiện nhóm 8 - Lớp 1503SCRE0111 Ngày họp 17/03/2014 Địa điểm tầng 2 nhà V Đại học thương mạiThành viên Thị NếtPhạm Thanh NgaTrần Mỹ NgaLê Thị Thúy NgânNguyễn Kim NgânVũ Thảo Ngân7. Vũ Thị Minh Ngân8. Nguyễn Thị Ngọc9. Nguyễn Thị NguyệtNhóm trưởng Lê Thị Thúy NgânNội dung Gặp mặt thành viên và tìm kiếm đề tàiNhận xét mọi người có mặt đầy đủHà Nội, ngày 17/03/2015Nhóm trưởngCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc*****TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠIKHOA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾBIÊN BẢN HỌP NHÓM Lần 2Môn học Phương pháp nghiên cứu khoa họcThực hiện nhóm 8 - Lớp 1503SCRE0111 Ngày họp 31/03/2014 Địa điểm tầng 2 nhà V Đại học thương mạiThành viên Thị NếtPhạm Thanh NgaTrần Mỹ NgaLê Thị Thúy NgânNguyễn Kim NgânVũ Thảo Ngân7. Vũ Thị Minh Ngân8. Nguyễn Thị Ngọc9. Nguyễn Thị NguyệtNhóm trưởng Lê Thị Thúy NgânNội dung-Thống nhất đề tàiLập đề cươngPhân chia công việcNhóm trưởng lập facebook nhóm, thêm thành viên vào và đôn đốc mọingười thảo luận trên facebook nhómNhận xét mọi người có mặt đầy đủ, làm việc nhiệt Nội, ngày 31/03/2015Nhóm trưởngCỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAMĐộc lập - Tự do - Hạnh phúc*****TRƯỜNG ĐẠI HỌC THƯƠNG MẠIKHOA THƯƠNG MẠI QUỐC TẾBIÊN BẢN HỌP NHÓMHình thức họp nhóm onlineMôn học Phương pháp nghiên cứu khoa họcThực hiện nhóm 8 - Lớp 1503SCRE0111 Ngày họp các ngày từ 31/03 đến 19/04/2015 Địa điểm facebook nhóm “PPNCKH”Thành viên Thị NếtPhạm Thanh NgaTrần Mỹ NgaLê Thị Thúy NgânNguyễn Kim NgânVũ Thảo NgânVũ Thị Minh NgânNguyễn Thị NgọcNguyễn Thị NguyệtNhóm trưởng Lê Thị Thúy NgânNội dung Nhóm trưởng đôn đốc mọi người thảo luận, các thành viên gửi bài lênfacebook nhóm. Nhóm trưởng thảo luận và gửi bài cho thành viên làm slide, xét thỉnh thoảng có một số bạn không có điều kiện online để cập nhật nhưngnhìn chung nhóm làm việc khá sôi nổi, các thành viên gắn kết với Nội, ngày 19/04/2015Nhóm trưởngBẢNG ĐÁNH GIÁ THÀNH VIÊNNhóm trưởng Lê Thị Thúy NgânSTTHỌ VÀ TÊNCÔNG VIỆC1Trần Thị NếtLời mở đầu234Phạm Thanh NgaTrần Mỹ NgaLê Thị Thúy Ngân5Nguyễn Kim Ngân6Vũ Thảo NgânKết luận; làm slideThực trạng chungGiải pháp; tổng hợpbản wordTổng luận về đề tàinghiên cứuThuyết trình7Vũ Thị Minh NgânCác biểu hiện tiêubiểu trong thực trạngXẾPLOẠIKÝ TÊN8Nguyễn Thị Ngọc9Nguyễn Thị NguyệtCác biểu hiện tiêubiểu trong thực trạngThực trạng chung
sinh viên việt nam hiện nay